Tuyển tập Đất Việt trời Nam liệt truyện của nhà văn Trần Bảo Định được xem là bản anh hùng ca đầy tự hào, chất chứa tinh thần yêu nước mãnh liệt của dân tộc Việt Nam. Những câu chuyện “từ thuở mang gươm đi mở cõi” xuyên suốt theo dòng chảy lịch sử kể từ khi các chúa Nguyễn vào Nam khai mở xứ Đàng Trong cho tới khi Nam Kỳ rơi vào tay thực dân Pháp và đến đầu thế kỷ XX, với cuộc chiến đấu của nhân dân Nam Bộ trong nỗ lực chung cùng giải phóng đất nước.
Nhà văn Trần Bảo Định được bạn đọc nhớ đến với tên thân thuộc là “Ông già Nam Bộ nhiều chuyện”. Đến với Đất Việt trời Nam liệt truyện, ông đã lần lượt khơi lại lịch sử từ dân gian trên vùng đất Nam Bộ qua nhiều thời kỳ khác nhau. Đây là tuyển tập các truyện ngắn dân gian được xem như bộ sử thi anh hùng; phản ánh một cách bao quát và sâu sắc những biến động thời đại, khơi sáng vẻ đẹp tâm hồn và khí phách của nhân dân Nam Bộ hơn ba trăm năm mở mang bờ cõi, bảo vệ và phát triển quê hương. Người bình dân Nam Bộ cũng trực tiếp góp phần tái kết nối mạch sống dân tộc Việt Nam trên phương diện lịch sử và văn hóa nghệ thuật.
Đất Việt trời Nam liệt truyện gồm ba tập Thượng (246 trang), Trung (280 trang) và Hạ (324 trang): Nếu như tập Thượng (hồi thứ nhất) từ năm 1620... là thời kỳ mở mang và thống nhất giang sơn thì tập Trung (hồi thứ hai) từ năm 1859... là thời kỳ giữ gìn và bảo vệ xứ sở, đến tập Hạ (hồi thứ ba) từ năm 1900... là thời kỳ chuyển biến và tái kết nối đứt gãy văn hóa bởi cuộc xâm lược của thực dân Pháp để nối liền mạch sống giống nòi.
Mở đầu tuyển tập, Đất nước - vừa như đề từ vừa như sự dẫn nhập. Đất nước tôi, ba lần Tuyên ngôn Độc lập/ Mấy ngàn năm, tranh đấu với thời gian/ Máu anh hùng tô non sông cẩm tú/ Mồ hôi dân kết đọng ngọn lúa vàng”. Nhà văn Trần Bảo Định nêu cao tinh thần tự cường, khẳng định nền độc lập của nước Việt, của dân Việt. Nhắc nhớ ba lần tuyên ngôn Độc lập, nhất là thơ thần “Nam quốc sơn hà” tương truyền của Lý Thường Kiệt (1019 - 1105) sáng tác trong cuộc kháng chiến chống quân Tống năm 1077; “Bình Ngô đại cáo” do Nguyễn Trãi (1380 - 1442) sáng tác năm 1428; “Tuyên ngôn Độc lập” do Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890 - 1969) đọc tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội (02.9.1945). Lịch sử công cuộc mở cõi, bảo vệ, phát triển vùng đất Nam Bộ trước sau chính là phần tiếp nối thống nhất và toàn vẹn, gắn bó chặt chẽ với toàn bộ truyền thống lịch sử dựng và giữ nước của dân tộc Việt.
Trong tuyển tập Đất Việt trời Nam liệt truyện, hình tượng nhân vật nữ chiếm vị trí đáng kể. Đó là công nữ Ngọc Vạn, công nữ Ngọc Khoa, hai bà vợ của Phan Thanh Giản, mẹ và vợ của Nguyễn Đình Chiểu, mẹ của Đỗ Trình Thoại, mẹ của Trần Xuân Hòa, cô Sáu Sanh, cô Hai Rái... Tất cả đều làm nổi bật vai trò và tôn vinh người phụ nữ Nam Bộ nói riêng và người phụ nữ Việt Nam nói chung trong công cuộc mở mang bờ cõi và đấu tranh bảo vệ đất nước.
Đặc biệt, qua Đất Việt trời Nam liệt truyện còn giúp bạn đọc nhận ra tâm hồn và khí phách người bình dân Nam Bộ: không phải giống chim phượng trong lý tưởng vương quyền mà là loài chim sẻ trên đồng ruộng nắng vàng phương Nam; cũng không phải thần long uốn lượn trời xanh mà là con trùn đất cày xới, vun bồi đại địa. Qua tác phẩm, bạn đọc sẽ nghe thấy âm vang tiếng nói hào sảng, cảm khái tính cách phóng khoáng và phẩm chất nhân nghĩa thủy chung của người bình dân châu thổ Cửu Long. Đây vừa là bản trường ca vừa là bản tráng ca mà cũng là khúc dân ca thấm đượm hương vị nắng gió chan hòa của đất đai xứ sở Nam Bộ xưa nay. Ngày nay, chúng ta tự hào và hạnh phúc vì đang sống trong nền hòa bình, độc lập và tự do mà biết bao thế hệ tiền nhân đã bền bỉ đấu tranh, không quản ngại hy sinh để giữ vững chủ quyền đất nước Việt Nam. Bởi, tình yêu với đất nước là tình cảm thiêng liêng nhất và tình yêu này sẽ tiếp nối, trường tồn đến muôn đời sau.
- Hồi thứ nhất - Từ năm 1620... phản ánh giai đoạn lịch sử Đàng Trong và Nam Kỳ với công cuộc mở mang bờ cõi về phương Nam. Bên cạnh cuộc thư hùng giữa Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh, nổi bật trên nền lịch sử thời đại ấy là những người anh hùng đại diện cho ý chí và khí phách của người bình dân: Đỗ Thanh Nhơn, Lê Xuân Giác, Lê Văn Duyệt, Mai Tự Thừa... và hàng loạt những anh hùng không tên tuổi cùng góp máu xương cho công cuộc thống nhất non sông vĩ đại. Có thể nói, Đất Việt trời Nam liệt truyện kết dệt bằng những sợi chỉ xuyên suốt lịch sử lẫn đan cài trong đó những sợi chỉ phong tục tập quán, sinh hoạt nghệ thuật, đạo đức luân lý, nhận thức tư tưởng.
- Hồi thứ hai - Từ năm 1859... phản ánh thời kỳ thực dân Pháp chính thức xâm lược nước ta. Bước ngoặt lịch sử làm thay đổi toàn diện dòng chảy thời đại. Nhà văn Trần Bảo Định tập trung thể hiện ý chí kiên gan bất khuất của nhân dân Nam Kỳ cùng với nhân dân cả nước đứng lên chống giặc ngoại xâm. Hàng loạt hình tượng anh hùng bình dân lấy thân đền nợ nước như: hai mươi dũng sĩ đất Gò Công; nghĩa sĩ Sáu Chóp Chài; má thằng Trợt và chú Năm với đôi trâu hào khí; Sáu cận vệ; lão Tám với thằng Nhanh... có thể xem là khúc bi tráng ca vang vọng trong cuộc đấu tranh của nhân dân Nam Kỳ thời bấy giờ. Đối tượng của cái nhìn nghệ thuật ở hồi này dịch chuyển từ các nhân vật anh hùng được sử sách lưu danh (như Trương Định, Nguyễn Hữu Huân, Võ Duy Dương, Phan Văn Đạt, Nguyễn Trung Trực...) đến các nhân vật anh hùng vô danh. Và chính các anh hùng vô danh mới thể hiện toàn bộ chủ đích nghệ thuật của Trần Bảo Định, cho thấy tư tưởng: Nhân Dân Anh Hùng!
- Hồi thứ ba - Từ năm 1900... phản ánh bước tiến mới của nhân dân Nam Kỳ trên tiến trình đấu tranh giải phóng dân tộc. Các hình tượng nhân vật lịch sử thời kỳ này cho thấy nhận thức toàn diện, sâu sắc hơn về cuộc xâm lược của thực dân Pháp và gợi mở những khuynh hướng đấu tranh khác nhau trong bối cảnh thời đại nhiều biến động trong nước cũng như trên thế giới. Bên cạnh đấu tranh yêu nước là việc phát triển nội lực kinh tế và đời sống xã hội của nhân dân. Phong trào vận động Minh Tân với các tên tuổi như Trần Chánh Chiếu, Huỳnh Đình Điển, Lê Văn Cửu... được tái hiện một cách chân thực. Đây là giai đoạn lịch sử sôi động và biến đổi mau lẹ; cho thấy vận mệnh giống nòi đến lúc thực hiện “bước nhảy vọt” trên tiến trình đấu tranh chống ngoại xâm và giải phóng dân tộc. Tiếp nối chí khí người xưa, cập nhật bối cảnh thời đại để xây dựng và phát triển phong trào yêu nước, đó là nguyên động lực to lớn thúc đẩy tiến trình lịch sử vùng đất Nam Kỳ cũng như vận mệnh chung của lịch sử và dân tộc Việt Nam hiện đại.