Rời ghế giảng đường đại học sư phạm với nhiều ước mơ, hoài bão mà tôi hằng ấp ủ. Tôi háo hức mong đợi đến ngày nhận công tác. Thế nhưng từ ước mơ đến thực tế là một khoảng cách khá xa. Ba lần tôi nộp hồ sơ xét tuyển công chức ở tỉnh, tôi đều không đạt vì chỉ tiêu thì ít mà số lượng hồ sơ thì nhiều. Tôi vô cùng thất vọng và chán nản.
Ba năm không có việc làm, tôi rất buồn, chỉ thui thủi một mình, không muốn đi đâu, gặp gỡ ai. Nhìn bạn bè cùng trang lứa đứa nào cũng đi dạy, tôi rất thèm. Những lần họp lớp tôi không dám đi vì sợ bạn bè hỏi “Mày đi dạy đâu rồi?” tôi không biết trả lời sao. Ở nhà, tôi cũng chịu áp lực từ phía gia đình, họ hàng, làng xóm gièm pha “ học đại học ra mà ở nhà phí của”. Nghe những lời ấy lòng tôi đau lắm nhưng biết làm sao, tôi tự an ủi mình.
Và rồi một bước rẽ trái trong cuộc đời, tôi quyết định đi làm trái nghề, miễn sao có việc làm và có thu nhập. Tôi làm đủ việc, nào là phụ bán cà phê, làm gia sư... Những công việc ấy đem lại cho tôi niềm vui, xua tan những tháng ngày ưu phiền, buồn bã trước đó. Việc nào tôi cũng hoàn thành tốt, được mọi người yêu mến và cất nhắc.
Thật tình cờ trong một lần, một người bạn đã nói cho tôi biết ở Tỉnh đoàn Quảng Trị có chương trình thanh niên tình nguyện lên miền núi. Tôi vui mừng và nộp hồ sơ ngay. Thật may mắn, tôi được chọn. Lúc đầu bố mẹ tôi phản đối dữ lắm vì cứ nghĩ thương thân con gái lên miền núi sẽ héo mòn tuổi xuân. Thế nhưng tôi đã quyết tâm đi vì nghĩ cơ hội đã đến với mình. Lên miền núi tôi đăng ký dạy học tình nguyện đúng như ước mơ làm cô giáo của tôi. Một bước ngoặt trong cuộc đời kể từ đó.
Nơi tôi đến là xã Ba Lòng, huyện Đắk Rông, một huyện miền núi phía tây của tỉnh Quảng Trị. Nơi đây cuộc sống của đồng bào dân tộc Vân Kiều còn nghèo khó, thiếu thốn, điều kiện đi lại khó khăn, chính vì thế việc học tập của con em trong bản cũng trở nên gian nan, vất vả. Với lòng nhiệt huyết của tuổi trẻ, “Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên”, chúng tôi những người mang màu áo xanh tình nguyện không ngại khó đã đến với những bản làng xa xôi, hẻo lánh.
Cơ sở vật chất trang bị cho việc dạy học ở đây chưa đảm bảo, lớp học thì tranh tre nứa lá. Ngoài con đường đi quá khó khăn, trèo đèo lội suối, mùa mưa có những quãng đi qua suối mà nước có thể ngập đến gần ngang lưng rồi. Nhưng quan trọng hơn, việc vận động đi học ở vùng núi còn khó khăn hơn nhiều. Ở các lớp vùng cao, học sinh bỏ học như cơm bữa. Nguyên nhân vẫn là do trình độ nhận thức của đồng bào còn nhiều hạn chế. Do vậy, rất cần hoạt động “dân vận” của người thầy. Ngoài giờ lên lớp, chúng tôi phải đi thôn để vận động, tuyên truyền, phân tích cho bà con hiểu việc học tập của con em là rất quan trọng nên bà con đã hiểu ra và cho con em đi học tương đối đầy đủ.
Chân dung tác giả - người giáo viên tâm huyết
Có khi để vận động được 1 học sinh đi học trở lại chúng tôi phải mất đến mấy ngày ở bản. Rồi vận động, thuyết phục thế nào để cho đồng bào hiểu cũng là cả một vấn đề... Nếu không yêu nghề, thương học sinh lắm thì chắc không theo nổi. Mỗi lần vận động thành công cho học sinh đến trường thì bao nhiêu mệt mỏi cũng tan biến và xem đó như một động lực giúp giáo viên gắn bó với nghề và mảnh đất này.
Dù công việc dạy học ở miền núi còn gặp nhiều khó khăn đủ bề, xa cuộc sống ồn ào nhộn nhịp nơi đô thị, xa những người thân thương của mình, nhưng tôi cảm thấy vui với sự lựa chọn của mình. Bởi tôi nghĩ mình đang làm một việc có ích cho xã hội, “gieo chữ ở vùng cao”, đem đến cái chữ cho học sinh ở vùng cao là một niềm vui và vinh dự lớn. Niềm vui này được tôi ghi lại trong cuốn sổ nhật ký mà bây giờ xem lại tôi cứ nhớ về những năm tháng đó.
Gắn bó với miền núi Đắk Rông – Quảng Trị được một thời gian, tôi được nhận quyết định chính thức về công tác ở một trường ở đồng bằng. Đây là một xã khó khăn của huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Nhưng so với Đắk Rông, cuộc sống ở đây đỡ vất vả hơn, điều kiện học tập của con em cũng khá hơn. Ngày chia tay với các em ở miền núi Đắk Rông, cả cô và trò đều bịn rịn lưu luyến, rưng rưng nước mắt.
Nhìn các em, lòng tôi lại dấy lên một tình yêu bao la. Các em thật đáng yêu, tôi cảm nhận điều đó bằng trái tim của mình. Cả cô giáo cả phụ huynh và học sinh đều không muốn chia tay. Bởi chúng tôi gắn bó thân thiết với nhau như người trong nhà. Có khó khăn gì cũng có thể chung vai giúp đỡ.
Lúc tôi ra đi, bà con dân bản tặng tôi rất nhiều thứ là những sản vật của quê hương. Nhưng với tôi, món quà có ý nghĩa nhất chính là tình cảm của các em và dân làng ở đây dành cho tôi suốt 3 năm qua. Rời bản làng trong ánh nắng chiều của một ngày mùa đông, bên tai tôi vẫn văng vẳng tiếng học sinh gọi vọng lại “Cô về dưới xuôi nhớ viết thư cho chúng em nhé”. Tôi ngoảnh đầu quay lại và dòng lệ lăn dài trên má.
Tôi rất nhớ các em, những khuôn mặt ngây thơ hiền lành; nhớ những ngày trèo đèo lội suối, nhớ những đêm đến tận nhà học sinh để vận động các em đi học, nhớ tiếng đánh vần, tiếng đọc bài của các em vang lên giữa núi rừng trùng điệp. Nhớ những em học trò đã 10 tuổi rồi mà vẫn không biết đọc, biết viết. Tôi đã phải cầm tay các em viết từng nét chữ, khi đánh vần được tên mình, các em tỏ ra rất thích thú. .. Ôi! Biết bao kỷ niệm đáng nhớ.
Những năm tháng lập nghiệp đầu đời của tôi là như thế đó, nó để lại trong tôi rất nhiều kỷ niệm đẹp. Nó giúp tôi rút ra nhiều bài học: Trong khó khăn gian khổ đừng bao giờ nản lòng, hãy làm tốt công việc ở hiện tại. Thành công đến với bạn không phải là ngẫu nhiên mà bằng chính nghị lực của mình.
Điều quan trọng hơn là tôi nhận ra tình yêu thương giữa con người với con người là bao la, không phân biệt là người Kinh hay người dân tộc. Qua những năm tháng dạy tình nguyện, tôi càng yêu hơn nghề dạy học, yêu những em học sinh và tôi nguyện cống hiến tốt hơn nữa cho sự nghiệp trồng người mà Đảng và nhà nước giao phó.
Tác giả cùng các em học sinh trường THPT thị xã Quảng Trị
Giờ đây tôi đang công tác tại một ngôi trường có truyền thống dạy học 45 năm ở Thành cổ Quảng Trị đó là trường THPT thị xã Quảng Trị. Tôi tâm niệm mình chưa dừng lại ở đó mà vẫn luôn phấn đấu cống hiến cho sự nghiệp “trồng người”. Tuy tuổi nghề của tôi chưa nhiều nhưng tôi cũng cảm nhận được nghề giáo là nghề hết sức đặc biệt, có vị trí hết sức quan trọng trong xã hội. Qua 17 năm gắn bó cùng nghề, tôi thấy mình đã không chọn sai nghề. Tôi hãnh diện, tự hào và hạnh phúc vô cùng vì mình đã góp phần chắp cánh ước mơ cho nhiều thế hệ học sinh.
Bây giờ với tôi “mỗi ngày đến trường là một ngày vui”.