Tình khúc chiến tuyến diệu hiền, đúng như tên gọi của nó, cuộc sống thực nhưng có những điều kỳ diệu, ấm nồng. Theo như lời Vũ Chí Thành thì: “Tình khúc chiến tuyến diệu hiền, vừa để tri ân đồng đội vừa kể lại những diễn biến ngắn ngủi trong một ngày đêm ở một trọng điểm mà diễn ra biết bao sự kiện bi tráng dở khóc dở cười của người lính Trường Sơn và những anh tài xế, họ phải đối mặt với siêu cường quân sự, rồi hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang”. Để rồi chính người lính Vũ Chí Thành năm nào vẫn luôn khắc ghi, vẫn luôn trân quý và gìn giữ trong trái tim mình tình cảm đặc biệt với từng con người, vùng đất, trận đánh mà anh đã đi qua, đã từng chứng kiến...
Chiến tranh giờ đã lùi xa/ Mở trang nhật ký vẫn là tinh khôi/ Trường Sơn ơi, Trường Sơn ơi!/ Đỉnh cao vời vợi mây trời nguyên sơ/ Bồi hồi nhớ chiến trường xưa/ Nhớ người 59 dầm mưa sốt rừng/ Đu mình trên đỉnh chín tầng/ Níu nhau dưới vực muôn trùng gian nan/ Mở đường tuyến dọc tuyến ngang/ Đạp lên bom đạn phá tan dốc đèo/ Xe dừng trên đỉnh cheo leo/ Chơi vơi vách đá tai bèo vẫy nhau/ Xe vào đoàn trước, đoàn sau/ Chuyện tình người lính xôn xao cánh rừng...

Tình khúc chiến tuyến diệu hiền được bố cục gồm 20 phần, với 425 trang sách.
Phần 1: Lời tác giả
Phần 2: Lời tựa
Phần 3: Binh trạm
Phần 4: Đường vào trọng điểm
Phần 5: Ngầm bạc
Phần 6: Trở về căn cứ
Phần 7: Những điều quý báu
Phần 8: Chảo lửa
Phần 9: Chiến mã song song
Phần 10: Tổ quốc
Phần 11: Hiệp khách
Phần 12: Dấu son
Phần 13: Tài tử
Phần 14: Việt - Lào anh em
Phần 15: Bận hôn cuối cùng
Phần 16: Cao thượng lên con
Phần 17: Chào Tết Trường Sơn
Phần 18: Sao băng sáng chói
Phần 19: Trên từng con suối
Phần 20: Nhớ tiếng “Mùa khô”
Để thể hiện những nội dung tư tưởng phong phú, đa dạng như trên, Vũ Chí Thành đã rất khéo léo trong việc lựa chọn và sắp xếp các sự kiện, diễn biến và phương thức thể hiện. 20 phần và hơn 400 trang sách được chuyển tải bằng thơ về một thời khắc hào hùng và bi thương không phải là điều đơn giản. Phải tâm huyết, phải yêu thương, phải trân trọng những điều đã qua thì Vũ Chí Thành mới có thể viết nên mạch thơ dài đậm chất trữ tình đến vậy.
Cùng với sự vươn lên của bản thân, Vũ Chí Thành còn nhắc nhớ con người phải biết tri ân công lao của cha ông. Bởi có hòa bình, hạnh phúc hôm nay phải đánh đổi cả máu xương và những đau thương, mất mát. Điều đặc biệt là Vũ Chí Thành vẫn tin vào sức mạnh của chân lý, niềm tin bất diệt vào tương lai.
Những năm tháng thanh xuân, Vũ Chí Thành đã góp công sức của mình cho cuộc đấu tranh vì hòa bình, giải phóng dân tộc. Cuộc kháng chiến chống Mỹ là cuộc chiến đầy cam go, thử thách nhưng với lòng kiên trì, tinh thần dũng cảm, niềm tin bất diệt vào chính nghĩa, vào lẽ phải, ông cùng những đồng chí đồng đội của mình chiến đấu và đã đạt được những thành quả tốt đẹp.
Hiện thực đau thương trở thành động lực sống và khao khát về một thế giới hòa bình, đất nước độc lập, nhân dân hạnh phúc là động lực để Vũ Chí Thành vượt qua mọi gian khó, nhọc nhằn của cuộc sống. Và trên tất cả ông ý thức được truyền thống của gia đình, quê hương để ông phấn đấu và thực hiện lý tưởng của mình.
Chào mẹ con đi/ Lòng nặng như chì/ Mấy anh quỳ xuống/ Trân trân mắt hướng/ Nước mắt tràn ra/ Thầm vụng xót xa/ “Khéo là lần cuối”/ Trưởng đoàn bối rối/ Xách gô vào xe/ Để khỏi phải nghe/ Tiếng lòng sụt sịt/ Gô cơm đậy kín/ Mỗi anh góc ngồi/ Suốt nửa tháng trời/ Trèo đèo lội suối/ Dò dẫm đêm tối/ Rừng già Trường Sơn/ Giành từng mét đường/ Dưới bom đạn địch/ Ngày đêm chẳng tính/ Căng mắt mà đi/ Có ai nghĩ gì/ Đâu là biên giới/ Trường Sơn vời vợi/ Chỗ nào cũng quân/ Bạn bè người thân/ Gặp nhau giàn giụa.../ Nguy hiểm giăng bày/ Đắng cay đang đợi/ Niềm tin thắng lợi/ Ắt sẽ vượt qua/ Tiếp sức cho ta/ Hồn thiêng đất nước... (trang 212-213).

Sống trong không khí cả nước sôi sục đánh Mỹ cứu nước, Vũ Chí Thành cũng tham gia chiến đấu bằng tất cả tâm lực và trí lực của mình. Sau đó, ông chuyển sang những vị trí, công việc khác nhau nhưng lúc nào cũng là người tiên phong, tâm huyết.
Với tư cách là công dân trong thời bình, Vũ Chí Thành vẫn giữ nguyên phẩm chất của người chiến sĩ như những ngày chiến đấu với quân thù, luôn giữ mình là tấm gương sáng, sống đúng với lương tâm và trách nhiệm của một công dân chân chính, bản lĩnh và trách nhiệm.
Từng là một chiến sĩ cách mạng, Vũ Chí Thành đã lựa chọn cho mình một lối sống đúng nghĩa. Sống là để cống hiến những gì tốt đẹp nhất mà mình có thể. Lối sống ấy đã chi phối cả cuộc đời và nhân cách của ông.
Từ khao khát đến hiện thực là một hành trình dài. Hành trình ấy phải trải qua cuộc đấu tranh gian khổ chiến trường và cả sự nỗ lực của bản thân. Vì thế, bạn đọc nhận ra trong xuyên suốt tập thơ Tình khúc chiến tuyến diệu hiền, hình ảnh con người mang vẻ đẹp tổng hòa rất đáng được trân trọng. Hoàn cảnh lịch sử đã hun đúc nên một thế hệ những con người biết xả thân vì lý tưởng, biết sống yêu thương với mọi kiếp người, biết khao khát để hướng về tương lai tốt đẹp ở phía trước, biết ơn tất cả những gì đã làm nên cuộc đời mình.
Vì miền Nam ta vẫn phải đi/ Vì độc lập hy sinh phải giữ/ Gánh giang sơn oằn mình chiến sự/ Sứ mệnh này trao cho ai đây?/ Ai là người thiết kế đường dây?/ Vạch đường hoàng phô bày kiệt tác/ Lúc hữu hình lúc vô tri giác/ Khiến siêu cường ngơ ngác thất kinh/ Đó là bộ tham mưu tài tình/... / Cả dân tộc hành quân đêm ngày/ Làm kẻ thù ngậm đắng nuốt cay/ Và hôm nay Việt Nam đã thắng/ Giữa trận đồ đường Hồ Chí Minh/ Bài học này mãi mãi lung linh/ Binh thư việt đấu trường quân sự/ Chưa tiền lệ nào trong lịch sử/ Có cuộc trường chinh hiển hách này.// Phận không may thì số lại may/ Được đi về trên con đường này/ Viết chút gì tri ân đồng đội/ Rồi kể vài cảm nhận Trường Sơn/ Đời lính chiến còn gì vui hơn/ Được ôn lại một thời hoa lửa/ Được viết lại một thời để nhớ/ Số phận sao như cánh chim trời/ Quân binh chủng nếm trải cả rồi/ Khắp ba miền mình đều chinh chiến/ Cuối cùng về huấn luyện đặc công/ Ra quân về trồng lúa, làm nông/ Lại tắm sông như thuở mục đồng/ Không nghỉ ngơi trau dồi học vấn/ Thả hồn vào tạo những vần thơ (trang 19-20).
Kiểu con người tri ân được Vũ Chí Thành nhấn mạnh xuyên suốt trong cả tập thơ. Nhà thơ nhắn nhủ và nhắc nhớ mọi người không được quên quá khứ, phải biết ơn và trân trọng những hy sinh của các thế hệ cha anh đã ngã xuống vì cuộc sống hòa bình, độc lập hôm nay. Đó cũng là câu trả lời vì sao mà cả đời Vũ Chí Thành luôn sống và hướng đến những lý tưởng cao đẹp để ông cống hiến những gì tốt nhất có thể cho đời, cho người và cho Tổ quốc thân yêu này.
Nhà thơ Vũ Chí Thành, sinh năm 1945, nguyên là giáo viên Khoa Đặc công, Trường Sỹ quan Lục Quân 2. Quê ở Nam Định. Nhập ngũ năm 1965, năm 1966 được tổ chức đưa đi đào tạo, năm 1970 vào chiến trường miền Nam cùng đoàn xe đặc biệt. Năm 1973 bị thương tật phải chuyển ra Bắc điều trị, đến năm 1974 ra quân và ở tại quê nhà.