Do cấu tạo gen?
Ở thập niên 90, một nhóm nghiên cứu y học ở Anh đã tìm ra được mối liên hệ giữa gen và chứng đồng tính. Đó là điểm đặc biệt trên nhánh dài của nhiễm sắc thể X của những người đồng tính được truyền từ mẹ sang con. Họ cho rằng, thiên hướng giới tính là một đặc điểm phức tạp, vì thế chẳng có gì ngạc nhiên khi họ tìm thấy vài vùng ADN có liên quan đến sự biểu hiện này; có một nhóm gen, có tiềm năng tương tác với những tác nhân môi trường. Đây là điều quyết định sự khác biệt trong thiên hướng tình dục.
Để chứng minh, họ đưa ra quá trình phân tích bộ gen của gần 500 người đàn ông, trong đó gần 200 gia đình có từ hai anh em trai trở lên là gay. Kết quả họ xác định được những đoạn ADN giống hệt nhau trên ba nhiễm sắc thể thường - số 7, 8 và 10 - trên khoảng 60% cặp gay anh em. Nếu ở các cặp đồng tính ngẫu nhiên, tỷ lệ ADN giống nhau chỉ là 50%. Mặt khác, họ cũng nhận thấy đoạn ADN trên nhiễm sắc thể số 10 có liên quan đến xu hướng giới tính chỉ khi nó được thừa hưởng từ mẹ. Từ công trình này họ khẳng định, gen đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nên một người đàn ông đích thực hay là gay.
Cũng trong khoảng thời gian đó, một vị bác sĩ thuộc khoa Thần kinh, Viện Salk (Mỹ) đã công bố nghiên cứu giải phẫu một phần não vùng dưới đầu của 40 tử thi. Trong số đó là một nửa người đồng tính luyến ái. Bác sĩ phát hiện ra rằng, những người đồng tính luyến ái, thành phần INH3 (cấu trúc nhỏ được biết đến như một yếu tố điều khiển thái độ tính dục ở động vật có vú) nhỏ gấp hai lần so với những người bình thường khác.
Những người này có biểu hiện bất thường về gen, nội tiết hoặc cơ quan sinh dục. Nguyên nhân dẫn đến khiếm khuyết giới tính có thể do quá trình mang thai bị đột biến gen, do di truyền bị khiếm khuyết nhiễm sắc thể hoặc những bất thường nội. Vì thế, những người tình dục đồng giới chỉ là nạn nhân của một cấu trúc sinh học mà họ không thể thay đổi được.
Tuy nhiên, trái ngược với những nghiên cứu trên, đầu năm 2000, một nhóm khoa học khác thuộc khu vực châu Á lại phản bác yếu tố kiểu gen này. Họ chỉ ra: “Tỉ lệ cùng đồng tính ở sinh đôi cùng trứng là 6.7%, ở sinh đôi khác trứng là 7.2%, ở các cặp anh chị em bình thường là 5.5%. Rõ ràng, kết quả cho thấy sự giống nhau về thiên hướng tình dục không tương ứng với sự giống nhau về kiểu gen. Yếu tố kiểu gen nếu có thì nó đã bị các yếu tố khác trội hơn lấn áp. Chính vì thế, những biểu hiện ham muốn đồng giới cần phải có một môi trường xã hội nào đó hoặc do tâm lý tác động.
Mặc dù các giả thiết đã đặt ra và chứng minh, song các nhà khoa học của các công trình nghiên cứu về đề tài đồng tính cũng nhấn mạnh rằng, trước mắt những thí nghiệm nói trên vẫn chưa thể chứng minh được rằng liệu có mối liên hệ nào đó giữa gen và hiện tượng đồng tính ở con người hay không, nhưng nó được nghiên cứu một cách nghiêm túc có cơ sở và đáng tin cậy. Chính vì thế, xã hội cần có một cái nhìn thật sự nghiêm túc hơn về vấn đề này.
Tỷ lệ không thay đổi
Có một thực tế là, ở xã hội nào cũng có hiện tượng tình yêu và tình dục đồng giới. Đó là điều chắc chắn. Tỷ lệ những người đồng tính nói chung gần như không thay đổi ở mọi xã hội, mọi thời đại trong suốt những thiên niên kỷ qua. Chúng chiếm khoảng 5% dân số mỗi quốc gia, tỷ lệ này bao gồm cả gay, les hoặc bisexual. Đó là xu hướng tính dục có tính chất cố định, không một cá nhân nào có thể lựa chọn giới tính cho mình. Sự đồng tính được hình thành từ bé dưới sự tác động qua lại của các yếu tố sinh học, tâm lý và xã hội, thậm chí nó còn có trước khi nếm trải… tình dục.
Nhiều người trong thời kỳ dậy thì phát hiện xu hướng tính dục “khác lạ” của mình và tìm mọi cách để thay đổi nhưng hoàn toàn… thất bại. Khoa học đã chứng minh, con người từ lúc sinh ra thái độ tình dục đã được quy định sẵn.
Trong chúng ta rất nhiều người đã từng “phán xét” xu hướng yêu đương và chuyện tình dục của những người đồng tính dưới góc độ đạo đức và tôn giáo hoặc tâm lý chủ quan, mà ít ai quan tâm đến các yếu tố di truyền, sinh học một cách nghiêm túc để hiểu rõ hơn về xu hướng tình dục này. Thực chất, đồng tính luyến ái không có hại cho cộng đồng xã hội. Nó không phải là căn bệnh hay một loại virus nào đó có thể lây lan và nó chỉ thuộc một “dân tộc thiểu số” trong một cộng đồng to lớn.
Đồng tính luyến ái chưa bao giờ gây nguy hiểm hay đe dọa cho sự tồn tại của giống loài. Chính vì thế, thái độ của mọi người không nên đặt họ vào mục tiêu để xoi mói và xa lánh. Sự kỳ thị và đàn áp chính là tội ác. Đừng đặt vấn đề người đồng tính có hại hay không có hại mà hãy tìm cho mình câu trả lời, chấp nhận hay không chấp nhận.
Một số nước tiên tiến trên thế giới nhận thức sâu sắc được điều này đã đặt hành vi tình dục đồng giới dưới sự bảo vệ của pháp luật. Mặc dù xã hội xem đó là biểu hiện của xu hướng tính dục khác thường nhưng vẫn xứng đáng được tôn trọng về mọi mặt như mọi người. Điển hình một số quốc gia đã chấp nhận những cuộc hôn nhân đồng tính.
Họ có quyền tự do yêu thương, bình đẳng, trách nhiệm và nghĩa vụ của mình như mọi công dân bình thường khác. Ở Việt Nam, cũng đã đến lúc cần có những tìm hiểu, nghiên cứu nghiêm túc về thực trạng nhóm người có xu hướng tình dục đồng tính này để có định hướng dư luận xã hội và giúp đỡ họ hòa nhập với cộng đồng một cách tích cực hơn.
Nhiều người trong thời kỳ dậy thì phát hiện xu hướng tính dục “khác lạ” của mình và tìm mọi cách để thay đổi nhưng hoàn toàn…thất bại. Khoa học đã chứng minh, con người từ lúc sinh ra thái độ tình dục đã được quy định sẵn.