1. Đối tượng nên ưu tiên trước
Trong bối cảnh dịch Covid-19 đang bùng phát dữ dội như hiện nay. Hằng ngày thế giới phải đối mặt với rất nhiều ca tử vong, chủ yếu là những bệnh nhân có độ tuổi cao. Nên WHO khuyến cáo nên ưu tiên vaccine trước cho nhóm đối tượng người cao tuổi.
Do hiện tại vaccine Sinopharm chưa có kết quả nghiên cứu từ nhóm đối tượng dưới 18 tuổi, nên khuyến cáo người ở độ tuổi này không nên tiêm loại vaccine trên.
Các nước có thể tham khảo Lộ trình Ưu tiên của WHO và Khung Giá trị của WHO làm tài liệu hướng dẫn ưu tiên các nhóm đối tượng cho quốc gia.
2. Phụ nữ đang trong thai kỳ, có được tiêm vaccine không?
Số liệu hiện có về vắc xin COVID-19 BIBP ở phụ nữ mang thai chưa đủ để đánh giá hiệu lực cũng như các nguy cơ liên quan tới loại vắc xin này trong thời kỳ mang thai. Tuy nhiên, đây là loại vắc xin bất hoạt với tá dược được sử dụng thường quy ở nhiều loại vắc xin khác và có đầy đủ hồ sơ an toàn, trong đó có phụ nữ mang thai.
Do đó, hiệu quả của vắc xin COVID-19 BIBP ở phụ nữ mang thai được cho là tương đương với nhóm phụ nữ không mang thai ở cùng độ tuổi.
Tạm thời, WHO khuyến cáo sử dụng vắc xin phòng COVID-19 BIBP ở phụ nữ mang thai khi lợi ích của việc tiêm chủng cho họ lớn hơn nguy cơ tiềm ẩn.
Để giúp phụ nữ mang thai đưa ra đánh giá, họ cần được cung cấp thông tin về nguy cơ mắc COVID-19 trong thời kỳ mang thai cũng như lợi ích của việc tiêm vắc xin trong bối cảnh dịch tễ của địa phương, và những hạn chế hiện tại về dữ liệu an toàn ở phụ nữ mang thai.
WHO không khuyến cáo xét nghiệm chẩn đoán mang thai trước khi tiêm vắc xin. WHO không khuyến cáo trì hoãn việc mang thai hay cân nhắc đình chỉ thai kỳ vì lý do tiêm vắc xin phòng COVID-19.
3. Những đối tượng khác
Có thể tiêm vaccine đối với những người đã từng bị nhiễm Covid-19. Tuy nhiên, việc làm này phải cách nhau 6 tháng nhiễm bệnh tự nhiên. Cho đến nay, vẫn chưa có nhiều biến chứng đối với trường hợp này.
Với nguồn cung vắc xin hạn chế, những người nhiễm SARS-CoV-2 đã được khẳng định bằng xét nghiệm PCR trong 6 tháng trước đó có thể trì hoãn tiêm vắc xin cho tới gần cuối thời kỳ này. Trong các khu vực có biến thể vi rút đáng lo ngại đang lưu hành, có thể tiêm chủng sớm hơn sau khi bị nhiễm.
Theo những nghiên cứu cho thấy, hiệu quả vaccine dự kiến là như nhau đối với người trưởng thành và phụ nữ trong giai đoạn mang thai. Đặc biệt, nếu như tiêm vaccine đối với phụ nữ đang trong thời kỳ cho con bú tương tự như những người trưởng thành khác. WHO không khuyến cáo dừng việc cho con bú đối với phụ nữ đang trong thời kỳ thai sản.
Người chung sống với HIV có nguy cơ cao mắc COVID-19 nặng. Người nhiễm HIV không nằm trong nhóm tham gia thử nghiệm nhưng với bản chất loại vắc xin không nhân bản này, thì những người nhiễm HIV nằm trong nhóm đối tượng được khuyến cáo tiêm chủng (ví dụ như cán bộ y tế) có thể được tiêm. Nếu có thể, cần cung cấp thông tin và tư vấn để đánh giá nguy cơ lợi ích của từng cá nhân.
4. Những ai không được tiêm loại vaccine này
Những cá nhân có tiền sử bị dị ứng với bất cứ thành phần nào của vacine thì không được tiêm
Những người có thân nhiệt trên 35,5 độ, nên cần hoãn việc tiêm phòng, cho đến khi thân nhiệt bình thường trở lại
5. Khuyến cáo liều tiêm chủng như thế nào?
SAGE khuyến cáo sử dụng vắc xin BIBP theo lịch 2 liều (0,5 ml) tiêm bắp.
WHO khuyến cáo khoảng cách giữa hai liều tiêm là 3–4 tuần. Nếu liều thứ hai được tiêm dưới 3 tuần sau liều đầu, thì không cần phải lặp lại liều này nữa. Nếu việc tiêm liều thứ hai bị hoãn sau 4 tuần, cần tiêm sớm nhất khi có thể. Khuyến cáo là mọi cá nhân được tiêm chủng đều được tiêm đủ 2 liều.
6. Vaccine nào tốt hơn?
Hiện tại chúng ta không thể so sánh, đâu là loại vaccine hiệu quả hơn. Mọi loại vaccine được WHO công bố có thể tiêm phòng, đều được kiểm duyệt cao và đã được thử nghiệm trong quá trình nghiên cứu
7. Độ an toàn của vaccine
SAGE đã đánh giá kỹ lưỡng số liệu về chất lượng, an toàn và hiệu lực của vắc xin này và khuyến cáo sử dụng cho những người từ 18 tuổi trở lên.
Số liệu về an toàn hiện tại chỉ giới hạn ở những đối tượng trên 60 tuổi (do số người tham gia thử nghiệm lâm sàng ít). Trong bối cảnh chúng ta không thể đoán trước sự khác biệt trong hồ sơ an toàn của vắc xin này ở người cao tuổi so với nhóm tuổi trẻ hơn, thì các quốc gia đang cân nhắc sử dụng vắc xin này ở người trên 60 tuổi cần duy trì việc theo dõi tính an toàn chủ động.
8. Hiệu quả vaccine như thế nào?
Một thử nghiệm Giai đoạn 3 đa quốc gia cho thấy, sau 14 ngày kể từ khi tiêm đủ hai liều (khoảng cách giữa hai liều là 21 ngày) có hiệu quả 79% phòng lây nhiễm vi rút SARS-CoV-2 có triệu chứng. Hiệu quả trong việc phòng ngừa nhập viện là 79%.
Thử nghiệm này không được thiết kế và có hiệu lực để chứng minh hiệu quả phòng ngừa bệnh nặng ở những người có bệnh nền, những người trong thời kỳ mang thai, hay những người từ 60 tuổi trở lên. Có ít đối tượng là phụ nữ tham gia vào nghiên cứu. Thời gian theo dõi trung vị ở thời điểm đánh giá dữ liệu là 112 ngày.
Có hai thử nghiệm đánh giá hiệu lực của vắc xin đang được triển khai nhưng chưa có số liệu.
9. Vaccine này có hiệu lực với các biến thể mới không?
SAGE hiện khuyến cáo sử dụng vắc xin này theo Lộ trình Ưu tiên của WHO.
Khi có thêm số liệu mới WHO sẽ cập nhật các khuyến cáo. Vắc xin này vẫn chưa được đánh giá trong bối cảnh các biến thể mới đang lưu hành rộng rãi.
10, Vaccine này phòng ngừa được việc nhiễm và lây truyền vi rút không?
Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có nhiều số liệu về loại vaccine này được tiêm chủng có sự lây lan hơn không. Nhưng WHO khuyến cao rằng: Dù có tiêm vaccine hay chưa tiêm chúng ta vẫn phải tuân thủ theo nguyên tắt 5K. Nhằm bảo vệ cho mình, cho chính gia đình bạn và xã hội