Có nhiều yếu tố gây ra chứng vẹo cột sống. Các yếu tố chính hiện được xem xét bao gồm gen (di truyền), mô mềm (xương, cơ, dây chằng và đĩa đệm), các vấn đề về tăng trưởng và phát triển cột sống và các bệnh về hệ thần kinh trung ương.
Ngoài chứng vẹo cột sống vô căn (phổ biến nhất ở tuổi vị thành niên), có hai loại vẹo cột sống: vẹo cột sống bẩm sinh và vẹo cột sống thần kinh cơ.
- Chứng vẹo cột sống bẩm sinh: dùng để chỉ căn bệnh bẩm sinh đã mắc bệnh và đã bắt đầu xuất hiện khi cột sống phát triển trước khi sinh. Loại dị tật này phát triển ngay sau khi sinh. Qua chụp X-quang, chụp cộng hưởng từ (MRI) hoặc phẫu thuật xác nhận rằng một hoặc nhiều đốt sống bẩm sinh hình thành không hoàn chỉnh hoặc cột sống không được phân đoạn bình thường, dẫn đến bất thường phát triển, do đó hình thành cạnh cột sống bị lồi, cong vẹo. Nhưng dấu hiệu bất thường ở cột sống từ khi sinh ra thường đi kèm với các vấn đề sức khỏe khác, chẳng hạn như dị tật tim và thận. Bệnh vẹo cột sống bẩm sinh nếu không có biện pháp phòng tránh hiệu quả, việc chẩn đoán sớm và điều trị sớm thì rất dể di căn sang những bộ phận khác, rất khó chữa trị về sau
Hiện nay, liệu pháp nẹp vít là phương pháp điều trị không phẫu thuật chính cho chứng vẹo cột sống bẩm sinh, nếu không thành công chỉ có thể phẫu thuật. Sự nhất trí của giới y khoa hiện nay là không thể chỉ dùng một phương pháp phẫu thuật để giải quyết chứng vẹo cột sống bẩm sinh ở các lứa tuổi, các dạng khác nhau và các tình trạng khác nhau mà phải phân tích các tình trạng cụ thể và lựa chọn phương pháp điều trị. Nói chung, cần phải đánh giá và điều trị đa ngành, đồng thời loại trừ các bệnh của các hệ thống khác, chẳng hạn như phổi, hệ thần kinh, hệ sinh dục, chỉnh hình, dinh dưỡng và tiêu hóa và các vấn đề sức khỏe khác.
- Vẹo cột sống thần kinh cơ : là một độ cong bất thường của cột sống do bệnh thần kinh cơ gây ra. Bất kỳ bệnh nào ảnh hưởng đến dây thần kinh và cơ đều có thể gây ra loại vẹo cột sống này. Các bệnh thần kinh hoặc cơ thứ phát phổ biến nhất bao gồm bại não, chấn thương tủy sống, loạn dưỡng cơ, teo cơ tủy sống và nứt đốt sống. Những bệnh này có thể gây mất cân bằng cơ và suy yếu sức mạnh của cơ, và cuối cùng dẫn đến cong vẹo cột sống.
So với chứng vẹo cột sống vô căn, chứng vẹo cột sống thần kinh cơ tiến triển nhanh hơn và có thể tiếp tục đến tuổi trưởng thành. Trên thực tế, chứng vẹo cột sống từ nhẹ đến trung bình sẽ không gây đau vai và lưng đáng kể, hoặc chèn ép dây thần kinh cột sống, tim hoặc phổi. Chỉ có chứng vẹo cột sống nặng mới có thể gây ra các vấn đề nghiêm trọng về tim và phổi. Độ cong nhỏ của cột sống có thể được cải thiện và tăng cường bằng nẹp đặc biệt, nhưng điều trị bằng nẹp không thể ngăn ngừa sự tiến triển của chứng vẹo cột sống thần kinh cơ, và thường phải phẫu thuật.
Cuối cùng, tôi khuyên các bậc phụ huynh nếu phát hiện con mình bị vẹo cột sống thì nên kịp thời đến khoa chấn thương chỉnh hình của bệnh viện chính quy, phối hợp với các bác sĩ chuyên khoa để đánh giá tình trạng của trẻ và theo lời khuyên của bác sĩ để được điều trị theo dõi.